Việt Nam có cần theo dõi và chuẩn bị cho những diễn biến quan hệ kinh tế Trung-Nga?
Trung Quốc và Nga, với tư cách là hai quốc gia quan trọng trên lục địa Á-Âu và trên toàn cầu, vốn có mối quan hệ bền chặt và sâu sắc. Mối quan hệ này đặc biệt rõ ràng vì cả hai đều đóng vai trò là đối trọng trước ảnh hưởng của Hoa Kì và châu Âu, không chỉ trong các vấn đề chính trị mà còn trong trao đổi kinh tế. Hiện tại, cả hai nước đang vướng vào những “xung đột” lớn: Nga với cuộc chiến ở Ukraina và Trung Quốc với cuộc chiến thương mại Mĩ – Trung. Do đó, mỗi hành động của một trong hai quốc gia đều phải được tính toán cẩn thận.
Các sự kiện gần đây, bao gồm cả việc tăng cường giám sát các giao dịch tài chính giữa các ngân hàng Trung Quốc và các thực thể Nga, đã làm dấy lên mối lo ngại về nguy cơ suy yếu mối quan hệ Trung-Nga. Những lo ngại này nhấn mạnh tác động sâu rộng mà bất kì sự suy giảm nào trong mối quan hệ ngoại giao và thương mại giữa Trung Quốc và Nga đều có thể gây ra, vượt ra ngoài biên giới của họ, ảnh hưởng đến các quốc gia láng giềng và các nền kinh tế toàn cầu khác.
Quan hệ Nga – Trung đang khó cân bằng ra sao?
Sau các lệnh trừng phạt kinh tế chống lại Nga sau khi nước này bắt đầu xung đột với Ukraina, các ngân hàng Trung Quốc không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tăng cường giám sát các hoạt động kinh doanh của Nga ở Trung Quốc để bảo vệ an ninh kinh tế. Sự thắt chặt này càng trở nên khó khăn hơn khi vào tháng 12 năm ngoái, các lệnh trừng phạt của Hoa Kì nhắm vào các tổ chức tài chính liên quan đến việc chuyển hàng cấm sang Nga. Để tránh các rủi ro, có ít nhất 9 ngân hàng Trung Quốc đã phải tạm dừng giao dịch với các công ti Nga, bao gồm cả những giao dịch được thực hiện bằng đồng nhân dân tệ. Điều này đã có tác động đáng kể, không chỉ đến thị trường tài chính của Trung Quốc và Nga mà còn đến quan hệ kinh tế với các đối tác khác của Nga.
Việc áp dụng các biện pháp trừng phạt đã khiến Nga bị cô lập về kinh tế, cộng thêm các biện pháp trừng phạt như loại một số ngân hàng Nga khỏi hệ thống Hiệp hội Viễn thông Tài chính Liên ngân hàng Toàn cầu (SWIFT). Hậu quả là tổng sản phẩm nội địa (GDP) của Nga giảm 7-8% trong giai đoạn 2022-2023. Để đối phó, Nga đã thể hiện khả năng phục hồi bằng cách đưa ra các chiến lược đổi mới nhằm tránh các hạn chế thương mại, bằng chứng là lượng nhập khẩu tăng 17% nâng Trung Quốc lên vị trí đối tác thương mại thay thế hàng đầu của Nga đối với các sản phẩm bị trừng phạt.
Giá trị thương mại Nga – Trung đã tăng vọt lên mức kỉ lục là 240 tỉ đô la Mĩ vào năm ngoái (Trung Quốc chiếm 18% các giao dịch thương mại của Nga). Tuy nhiên, với Trung Quốc, Nga không quan trọng đến vậy. Chỉ chiếm 2% tổng giá trị thương mại của Trung Quốc, Nga khó lòng đòi hỏi sự ưu tiên của Trung Quốc với mình. Xuất khẩu của Trung Quốc sang Nga trải rộng trên nhiều lĩnh vực, bao gồm máy móc và thiết bị điện tử trị giá 28,8 tỉ đô la Mĩ (tương đương 731 nghìn tỉ đồng), kim loại cơ bản ở mức 5,7 tỉ đô la Mĩ (tương đương 145 nghìn tỉ đồng), dệt may ở mức 5,4 tỉ đô la Mĩ (tương đương 137 nghìn tỉ đồng) và xe cộ, tàu thủy và máy bay ở mức 5 tỉ đô la Mĩ (tương đương 127 nghìn tỉ đồng).
Elizabeth Wishnick, Phó Giáo sư Khoa học chính trị tại Đại học bang New Jersey ở Montclair (Hoa Kì) và là chuyên gia về chính sách đối ngoại của Trung Quốc, đã nhấn mạnh tầm quan trọng của quan hệ đối tác Trung – Nga. Bà khẳng định rằng điều này vẫn sẽ tiếp tục là ưu tiên hàng đầu của giới lãnh đạo Trung Quốc, bất chấp những hậu quả ngoại giao từ cuộc xung đột Ukraina, bà Wishnick đã chỉ ra sự phụ thuộc lẫn nhau thiết yếu và các mục tiêu chung của Trung Quốc và Nga, bất chấp những khác biệt trong các lĩnh vực chính sách khác nhau. Đồng thời, Tiến sĩ Natasha Kuhrt, giảng viên Hòa bình và An ninh quốc tế tại Khoa Nghiên cứu Chiến tranh, Đại học Nhà vua Luân Đôn (Anh quốc), chuyên theo dõi các chính sách đối ngoại và an ninh của Nga, lưu ý sự phát triển của quan hệ Trung – Nga. Bà nhấn mạnh rằng mối quan hệ đã phát triển vượt ra ngoài bản chất giao dịch đơn thuần để trở thành quan hệ đối tác toàn diện với những hậu quả lâu dài.
Ảnh hưởng tới Việt Nam thế nào?
Bên cạnh đó, xung đột thương mại giữa Hoa Kì và Trung Quốc đã xúc tác cho việc định hình lại chuỗi giá trị trên khắp châu Á, dẫn đến sự gia tăng 3% trong thương mại toàn cầu nói chung. Xuất khẩu của Hoa Kì sang Trung Quốc đã giảm mạnh 26,3%, tuy nhiên xuất khẩu sang các thị trường khác đã tăng khiêm tốn 2,2%. Song song đó, xuất khẩu của Trung Quốc sang Hoa Kì đã giảm 8,5%, trong khi lại giảm nhẹ 5,5%. sự gia tăng xuất khẩu sang các thị trường thay thế.
Việt Nam, bị ảnh hưởng đáng kể bởi cuộc chiến thương mại này, đã khéo léo vượt qua những biến động kinh tế và trở thành nước hưởng lợi chính. tăng trưởng xuất khẩu, đặc biệt là sang thị trường Hoa Kì. Nhờ đó, nền kinh tế Việt Nam đã chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ, với những dự báo cho thấy quỹ đạo kinh tế tích cực bền vững trong tương lai gần. Tuy nhiên, những biến động từ phía Trung Quốc, Nga hay Hoa Kì và châu Âu vẫn có thể tạo ra những cơn địa chấn cho nền kinh tế còn mong manh này.
Trong khi quan hệ kinh tế của Việt Nam với Nga tương đối ít, với kim ngạch thương mại hai chiều chưa đến 5 tỉ đô la Mĩ (tương đương 127 nghìn tỉ đồng) vào năm 2020, thì thương mại của Việt Nam với Trung Quốc lại đáng kể hơn nhiều, đạt 153,4 tỉ đô la Mĩ (tương đương 3,9 triệu tỉ đồng) trong cùng năm. Do đó, bất kỳ hợp tác kinh tế nào giữa Trung Quốc và Nga, đặc biệt là trong các lĩnh vực then chốt như năng lượng, công nghệ và đổi mới, đều có khả năng ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của Việt Nam. Thêm vào đó, lợi ích chiến lược của Việt Nam không phải lúc nào cũng phù hợp với quan điểm của Nga, đặc biệt là trong các vấn đề như tranh chấp Biển Đông và vấn đề sông Mê Kông.
Vì vậy, Việt Nam luôn phải thận trọng theo dõi chặt chẽ mối quan hệ Trung – Nga và sẵn sàng điều chỉnh chính sách cho phù hợp để bảo vệ lợi ích quốc gia của mình. Điều này bao gồm cả việc sẵn sàng tham gia vào các cuộc đối thoại ngoại giao, đánh giá lại quan hệ đối tác thương mại và xem xét những thay đổi địa chính trị rộng lớn hơn mà những diễn biến như vậy có thể mang lại nhằm đảm bảo an ninh và sự ổn định của kinh tế quốc gia.
Giới thiệu gói nhượng quyền thương mại trung tâm Anh ngữ quốc tế Language Link Academic
Hệ thống nhượng quyền trung tâm Anh ngữ quốc tế của Language Link được thiết kế đặc biệt nhằm đáp ứng nhu cầu của các tổ chức và cá nhân có mong muốn đầu tư vào lĩnh vực giáo dục vẫn đang còn nhiều tiềm năng phát triển. Bên cạnh nguồn thu từ trung tâm tiếng Anh, một số nguồn thu bổ sung bao gồm:
- Chia sẻ hoa hồng dịch vụ du học;
- Bán giáo trình và các khóa học đào tạo giáo viên trực tuyến có bản quyền;
- Các chương trình đào tạo ngoài trung tâm, tiếp cận đến các trường tiểu học và trung học.
Về thương hiệu Language Link Academic
Language Link Academic (LLA) được thành lập năm 1996 tại Hà Nội với tên gọi Language Link Việt Nam, trở thành một trong những đơn vị giáo dục tiếng Anh bản ngữ đầu tiên tại Việt Nam.
Áp dụng công nghệ giáo dục tiêu chuẩn châu Âu, LLA phát triển thành công chương trình đào tạo tiếng Anh hoàn hảo dành cho người Việt và đã sát cánh cùng hàng trăm nghìn học sinh và phụ huynh trong suốt hơn 25 năm qua. Hàng chục chương trình giáo dục đa kênh của LLA ra đời nhằm giúp học sinh người Việt học tiếng Anh tốt hơn, nhanh hơn, sẵn sàng và tự tin viết nên câu chuyện của chính mình không chỉ tại Việt Nam mà bất cứ đâu trên toàn thế giới.
Hệ thống trung tâm Anh ngữ LLA đã có mặt tại 10 tỉnh thành trên toàn quốc và là đối tác lâu năm của Sở Giáo dục và Đào tạo Tp. Hà Nội trong gần 20 năm.
Để nhận tư vấn về gói nhượng quyền, vui lòng để lại thông tin tại đây hoặc gửi email tới địa chỉ franchise@languagelink.edu.vn, hotline: 0989857371.